Quyết toán thuế đối với DN giải thể đảm bảo cơ chế thuận lợi cho đơn vị cung cấp dịch vụ.
Theo quy định tại Nghị định 91/2014/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 151/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế cơ quan thuế đặt hàng và sử dụng kết quả của các công ty kiểm toán độc lập, tổ chức làm dịch vụ về thuế để thực hiện quyết toán thuế (QTT) cho DN giải thể. Tổng cục Thuế hiện đang xây dựng quy chế sử dụng kinh phí và nguồn kinh phí chi trả theo các hợp đồng dịch vụ và tổ chức lấy ý kiến các cục thuế địa phương.
Bà Lê Thị Duyên Hải, Vụ trưởng Vụ Kê khai và kế toán thuế cho biết, ngoài yêu cầu về đảm bảo các nguyên tắc chung, dự thảo quy chế cũng đưa ra nội dung quy chế tập trung hướng dẫn việc xây dựng yêu cầu đặt hàng; xây dựng dự toán kinh phí; yêu cầu về năng lực của đơn vị cung cấp dịch vụ (CCDV); phương thức lựa chọn cũng như nội dung hợp đồng đặt hàng, phân loại, bàn giao hồ sơ, tiếp nhận, xử lý kết quả kiểm tra giữa cơ quan thuế và đơn vị CCDV, nhất là nguyên tắc sử dụng kinh phí và nguồn phí trả cho các đơn vị CCDV.
Cụ thể về nguồn kinh phí, dự kiến hàng năm thủ trưởng cơ quan thuế các tỉnh, TP tổ chức xác định nhu cầu và xây dựng dự toán kinh phí cho việc thuê đơn vị CCDV cùng với dự toán chi thường xuyên của cơ quan thuế. Căn cứ để xác định kinh phí là ước tính số lượng hồ sơ xin giải thể, cơ quan thuế phải kiểm tra QTT và cần sử dụng dịch vụ để thực hiện đảm bảo thời hạn kiểm tra theo quy định tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đơn giá xây dựng dự toán được xác định theo hướng dẫn tại Luật Đấu thầu và các văn bản hướng dẫn thi hành. Riêng việc sử dụng kinh phí và nguồn kinh phí chi trả cho các đơn vị cung cấp dịch vụ (CCDV) phải đảm bảo một số nguyên tắc.
Thứ nhất, đơn vị CCDV được chọn phải có đủ năng lực thay mặt cơ quan thuế kiểm tra QTT của DN giải thể, chấm dứt hoạt động.
Thứ hai, phải tuân theo pháp luật và thực hiện theo đúng chức năng, thẩm quyền, trình tự, thời hạn do pháp luật quy định; đảm bảo chính xác, khách quan, kịp thời; không làm cản trở đến hoạt động bình thường của DN được kiểm tra.
Thứ ba, khi tiến hành kiểm tra, người ra quyết định, trưởng đoàn hay thành viên đoàn kiểm tra phải thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật, các văn bản hướng dẫn thực hiện của ngành thuế; các quy định tại hợp đồng giữa cơ quan thuế và đơn vị CCDV; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
Thứ tư, kết quả kiểm tra quyết toán của đơn vị CCDV được cơ quan thuế sử dụng để ban hành quyết định xử lý truy thu thuế, xử phạt vi phạm hành chính về thuế hoặc kết luận các quyết định trong quản lý thuế theo thẩm quyền.
Thứ năm, việc sử dụng kinh phí chi trả cho đơn vị CCDV kiểm tra, QTT đối với DN giải thể, chấm dứt hoạt động, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm.
Về quyền và trách nhiệm của các đơn vị CCDV và của cơ quan quản lý DN giải thể, chấm dứt hoạt động, đại diện Vụ kê khai và kế toán thuế cho biết, đã quy định cụ thể tại Thông tư 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, dự thảo đề xuất bổ sung một số nội dung hướng dẫn các cơ quan thuế địa phương đưa vào các điều khoản của hợp đồng đặt hàng dịch vụ ký với các đơn vị CCDV nhằm tránh các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa hai bên.
Về trách nhiệm của đơn vị CCDV, dự thảo quy định rõ, phải có trách nhiệm bố trí nhân viên đủ tiêu chuẩn theo quy định của cơ quan thuế để thực hiện hợp đồng đã ký; không được uỷ nhiệm lại cho bất cứ bên thứ ba thực hiện hợp đồng đã ký với cơ quan thuế; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện dịch vụ QTT theo hồ sơ kê khai của người nộp thuế (NNT). Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện hồ sơ QTT có sự sai sót ảnh hưởng đến số thuế NNT phải nộp, hoặc được hoàn thì đơn vị CCDV không những cũng bị xử lý vì vi phạm pháp luật mà còn phải nộp NSNN số thuế còn thiếu, số thuế được hoàn cao hơn. Đơn vị CCDV cũng phải cung cấp chính xác, kịp thời theo yêu cầu của cơ quan thuế các tài liệu, chứng minh tính chính xác của việc thực hiện dịch vụ kiểm tra QTT. Trường hợp NNT có đủ bằng chứng về việc đơn vị CCDV không thực hiện đúng trách nhiệm, gây thiệt hại thì họ có quyền kiến nghị cơ quan thuế chấm dứt hợp đồng.
Nguồn Tổng cục thuế