Đề xuất mức giá trị khoản nợ xấu có giá trị lớn là từ 100 tỷ đồng trở lên
[VAC] Ngân hàng Nhà nước đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết việc thẩm định giá khởi điểm khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và việc thành lập Hội đồng đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đối với khoản nợ xấu và tài sản sản đảm bảo của khoản nợ xấu có giá trị lớn trong trường hợp tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng tự đấu giá.
Theo đó, dự thảo quy định các đối tượng áp dụng tại Nghị định này bao gồm: Tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng; Doanh nghiệp thẩm định giá tài sản; Tổ chức tín dụng có nợ xấu bán cho tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng; Các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc đấu giá tài sản là nợ xấu, tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu.
Theo dự thảo, những trường hợp phải thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi Công ty quản lý tài sản tự đấu giá là:
Một là, Khoản nợ xấu được Công ty quản lý tài sản mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt mà khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, Công ty quản lý tài sản không thỏa thuận được với tổ chức tín dụng bán nợ về giá khởi điểm;
Hai là, Khoản nợ xấu được Công ty quản lý tài sản mua theo giá trị thị trường;
Ba là, Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, Công ty quản lý tài sản không thỏa thuận được với bên bảo đảm về giá khởi điểm.
Công ty Quản lý tài sản có nghĩa vụ thông báo công khai về việc thuê doanh nghiệp thẩm định giá ít nhất 05 ngày làm việc trên Cổng thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Trang thông tin điện tử của Công ty Quản lý tài sản để các doanh nghiệp thẩm định giá đăng ký tham gia.
Đồng thời, công ty Quản lý tài sản ban hành, thực hiện và chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn, quy trình xem xét, quyết định lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá để thực hiện việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Dự thảo Nghị định đề xuất mức giá trị khoản nợ xấu có giá trị lớn là từ 100 tỷ đồng trở lên để đảm bảo tính khả thi của quy định, đồng thời cũng giảm thiểu rủi ro khi Công ty quản lý tài sản thực hiện bán đấu giá.
Quy định căn cứ để xác định giá trị 100 tỷ đồng trở lên có 2 phương án như sau:
Phương án 1: Khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị lớn thuộc một trong 3 trường hợp sau:
Thứ nhất, Trường hợp khoản nợ xấu được mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt có giá trị ghi sổ số dư nợ gốc đang theo dõi trên sổ sách của Công ty quản lý tài sản từ 100 tỷ đồng trở lên.
Thứ hai, trường hợp khoản nợ xấu được mua theo giá trị thị trường mà có giá mua từ tổ chức tín dụng bán nợ từ 100 tỷ đồng trở lên.
Thứ ba là, trường hợp tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị theo biên bản định giá gần nhất từ 100 tỷ đồng trở lên.
Phương án 2: Khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị lớn là khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá khởi điểm được xác định theo quy định của Nghị định này và theo các quy định khác của pháp luật khi tổ chức bán đấu giá từ 100 tỷ đồng trở lên.
Dự thảo nêu rõ, Công ty quản lý tài sản quyết định thành lập Hội đồng đấu giá nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đối với các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị lớn.
Hội đồng đấu giá nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu gồm ba thành viên trở lên, bao gồm: 01 đại diện lãnh đạo Công ty Quản lý tài sản là Chủ tịch Hội đồng, 01 đấu giá viên, 01 đại diện tổ chức tín dụng bán nợ (trường hợp bán đấu giá khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt), đại diện các đơn vị có liên quan thuộc Công ty quản lý tài sản, các thành viên khác (nếu có).
Hội đồng đấu giá nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu làm việc theo nguyên tắc tập trung, thảo luận tập thể và quyết định theo đa số thông qua hình thức biểu quyết hoặc bỏ phiếu kín. Trường hợp kết quả biểu quyết hoặc số phiếu bằng nhau thì Chủ tịch Hội đồng có quyền quyết định cuối cùng.